Chuyện một cô gái Sông Trà
Đời bà là một trường hợp khá đặc biệt và thật hiếm có. Trò chuyện với bà, dù là nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, chính khách, tướng lĩnh hay thường dân, nhất là cán bộ nữ và tuổi trẻ, đều có thể nhận được những bài học có giá trị. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nguyên Phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa cũng đã đồng cảm như vậy khi trân trọng nói về bà.
Rất có thể, cụ bà Phạm Thị Trinh hiện đang sống hồn hậu, thanh bạch tại ngôi nhà nhỏ số 16, ngõ 315 phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội, là một phụ nữ cao tuổi Đảng nhất Việt Nam hiện tại. Nhân ngày 3-2 kỷ niệm thành lập Đảng đầy ý nghĩa thiêng liêng, chúng tôi đến thăm bà. Bà tiếp chuyện vui vẻ, cởi mở như thân tình từ lâu. Đời bà, gắn liền với cuộc đấu tranh biết bao gian lao, anh dũng, vẻ vang của Đảng, nhân dân và phong trào phụ nữ nước ta trong thế kỷ 20, có sức cuốn hút như một thiên lịch sử truyền hình lớn lao, kỳ thú lạ thường. Thật tiếc quá! Tôi không phải là nhà văn để có thể làm giàu chất văn học, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ cao của bạn đọc. Tôi đành tự an ủi: Cuộc đời bà vốn đã đẹp đẽ, lãng mạn như tiểu thuyết, không cần phải hư cấu, thêm thắt gì hơn. Thôi thì bằng hình thức ghi chép, cố gắng hết sức mình phản ảnh thật trung thực, cho dù chỉ được phần nào về bà. Và, tôi khát khao hy vọng sẽ có một ngày nào đó, có một nhà văn, một đạo diễn điện ảnh tâm huyết, tài năng, tái hiện một cách hết sức sinh động, hấp dẫn cuộc đời bà cùng với những người thân yêu, âu đó cũng là thể hiện tấm lòng của hậu thế hôm nay với quá khứ, tiền nhân, cùng nhau tiếp bước đi tới tương lai tươi sáng. Được như vậy là thỏa nguyện lắm rồi!
Bà thuật lại: Bà quê gốc ở làng An Phú (ngày xưa thuộc tổng Thượng), nay là xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, một làng quê nghèo nhưng giàu truyền thống chống đế quốc, phong kiến, nằm bên bờ miệt thượng lưu sông Trà Khúc hùng vĩ và thơ mộng. Gia đình bà làm ruộng, có 10 anh chị em, bà là út nên thường gọi út Trinh hoặc Một Trinh, cô Một, chị Một. Thời Pháp thuộc, nhà bà nghèo khổ đến cùng cực, còn bị ghép tội “theo giặc!?” vì đã tham gia các phong trào yêu nước. Mẹ bà là người gan dạ khác thường. Thời Văn Thân, cha bà tham gia phong trào “Khất thuế”, bị tống giam. Mẹ bà dám tranh cãi với bọn tổng lý, giở những miếng võ của ông ngoại bà truyền cho, khiến bọn chúng hoảng hồn chạy trốn và bà xông vào đình làng tháo cùm, giải thoát cho chồng. Thời có Đảng, mẹ bà dám nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng, chưa từng khuất phục đòn roi của kẻ thù. Mẹ bà không được học hành nhưng thông minh, thường kể chuyện các vị anh hùng dân tộc và các sĩ phu chống Pháp cho con cháu noi gương. Còn các anh trai bà tham gia tổ chức “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”. Mồ côi cha từ năm lên bảy, bà thất học, quanh năm chỉ biết gặt thuê, cấy mướn, bắt ốc mò cua đỡ đần mẹ già và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khí phách, nghị lực, nhân cách phi thường của mẹ và các anh trai.
Hai năm 1928-1929, mới 14-15 tuổi, vì tự ái và giận các anh “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” không cho đi biểu tình, hội họp, chỉ biết nhờ ra ngõ canh gác; nghe đọc truyện cụ Phan Bội Châu mà mình thì mù chữ, út Trinh tự mày mò từng chữ a, b, c… giở sách tập ghép vần, ra trường làng học lén, rồi biết đọc, biết viết, khiến nhiều người hết sức ngạc nhiên. Năm 1930, một bước ngoặt lịch sử đến với tuổi 16 của út Trinh. Bà nhớ như in ngày 10-9-1930 trong nhà có cuộc họp kín. Năm Chừng-bạn chí thân của các anh trai-hỏi bà: “Nếu bọn anh nhờ em giúp một việc nguy hiểm đến tính mạng, em có dám làm? Có sợ chết không? Anh sợ em còn nhỏ dại, không có gan chịu nổi sự tàn ác của bọn chúng?”. Út Trinh rắn rỏi hẳn lên: “Em nói thiệt với anh, đừng coi thường em nhỏ dại nghen! Việc gì em cũng dám làm. Chết vì nước, vì dân, thì sợ gì chết…”. Vậy là, ngay đêm đó và ba đêm liền, bà chui lủi rải truyền đơn khắp các đường thôn, bờ ruộng, gò miếu, đình làng, rải cả vào ngõ nhà bọn hương lý. Bà dán áp-phích, truyền đơn vào tường nhà, thân cây; xếp từng xếp truyền đơn ở những góc khuất trên mái đình. Có một đêm, bà chạm trán một bóng đen. Bà chắc mình sẽ bị bắt, chuẩn bị đối phó. Không ngờ là Phạm Kiệt (anh ruột thứ 10, kề bà). Bà hỏi: “Anh đi đâu? Mượn quần áo đen của ai mặc làm em sợ mất hồn!”. Phạm Kiệt hóm hỉnh: “Thì tao đi xem mắt, hỏi vợ chứ đi đâu?”. Thực ra, để đề phòng bất trắc, Phạm Kiệt được bố trí đi treo cờ búa liềm và hỗ trợ bà. Ông treo cờ tít trên các ngọn cây cao. Cứ sáng ra, xóm làng bừng bừng náo động hẳn lên. Bọn hương lý cuống cuồng chửi bới om sòm, đánh đập lung tung mà bọn tuần đinh không tài nào tháo gỡ kịp cờ, truyền đơn. Mỗi lần có gió thổi qua, truyền đơn trên mái đình bay lượn vung vãi, chúng lùng sục khắp nơi không thấy người rải, càng điên tiết, hoang mang. Bà giả bộ đi mua ang lúa về xay gạo để nắm tình hình. Bà con gặp bảo: “Một Trinh, mầy đi đâu thì đi, đừng ra đình nghe chưa! Mầy ra đó, tụi nó đánh mầy sưng đít, bể gối đó nghen!”. Út Trinh không nhịn được cười.
Tiếp đến, một đêm mít tinh lớn được tổ chức, có “cấp trên” về nói chuyện. Người giàu có và cả bọn có máu mặt đều tham dự. Anh em Tự vệ đỏ xếp bọn hương lý, cường hào ngồi chung một góc, quản lý nghiêm ngặt, chúng sợ hãi im phăng phắc. “Cấp trên” mặc đồ đen, đầu đội khăn bông to tướng, chòm râu đen quắc thước, giọng trọ trẹ tiếng miền ngoài, nhưng nói chuyện hùng hồn, lưu loát, đầy sức thuyết phục. Đồng bào hoan hô nhiệt liệt. Từ sau buổi mít tinh, nhiều người giàu có tìm cách mạng xin đóng nguyệt liễm, ủng hộ tiền, gạo. Bọn mã tà lo sợ, trốn lên đồn, lên huyện ở. Té ra, vị “thượng cấp” diễn thuyết đêm đó là Phạm Kiệt cải dạng.
Đồng chí Phạm Kiệt về sau là một danh nhân lịch sử nổi tiếng. Ở tù chung thân tại nhà lao Buôn Ma Thuột, ông đã vui vẻ chuyển phương án trốn tù của mình thành kế hoạch trốn tù thành công cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh, chịu đòn tra tấn chết đi sống lại, vẫn không cung khai. Ông đã trực tiếp lãnh đạo chỉ huy thắng lợi trọn vẹn cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ, sáng lập và chỉ huy Đội Du kích Ba Tơ lừng danh. Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, ông là người duy nhất cương trực kiến nghị Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay đổi cách đánh. Cuối đời, ông là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an, Tư lệnh kiêm Chính ủy lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), Đại biểu Quốc hội khóa III, IV, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Ông mất tháng 1-1975 trong niềm thương tiếc vô hạn của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, đồng bào, đồng chí, bạn bè cả nước.
Mười ngày sau khi rải truyền đơn, có người đưa cho bà một cuộn giấy vo tròn nhỏ xíu. Đọc xong, bà xin ý kiến mẹ. Mẹ điềm nhiên bảo: “Mẹ tự nuôi sống mình được. Nếu con chịu được đòn tra tấn dã man của kẻ thù, thì con cứ yên tâm ra đi. Đừng lo lắng gì cho mẹ”. Thương mẹ già yếu, nghèo khổ, hiu hắt, nhưng ấp ủ từ lâu ước mơ được làm cách mạng, út Trinh nuốt nước mắt tạm biệt mẹ, bí mật ra bờ sông, xuống chiếc ghe nhỏ, xuôi dòng sông Trà giữa đêm đen. Đây là lần đầu tiên, út Trinh rời khỏi làng, có chuyến đi xa đến tận cuối sông Trà, về cơ quan Tỉnh ủy. Lần đầu tiên được nhìn thấy mây nước xanh trong bát ngát, biển cả bao la tít tắp tới chân trời, lại được nghe chị liên lạc mô tả 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi như Thạch Bích tà dương, Long Đầu hí thủy, Thiên Bút phê vân, La Hà thạch trận, Hà Nhai vãn độ, Thiên Ấn niêm hà, Cổ Lũy cô thôn v.v.. út Trinh thấy lòng vô cùng rạo rực như muốn reo lên: “Ôi! Đất nước quê mình đẹp quá mà lâu nay mình không được biết! Phải làm gì đây?”.
Nhớ lại buổi đầu, không hiểu công tác tuyên truyền là gì, lo sợ không làm nổi, bà xin được giao nhiệm vụ khác. Nhưng rồi được mọi người tin yêu, động viên, hết lòng chỉ bảo, bà nhanh chóng chấp hành.
Bà thực hiện nhiệm vụ in ấn thành thạo, qua đó am hiểu đường lối, chủ trương của Đảng, ngày càng đọc thông viết thạo. Trong các bạn, có Nguyễn Chánh tính tình điềm đạm, tuy đồng tuổi nhưng tầm hiểu biết khá sâu rộng, đã tận tình giúp đỡ bà hiểu biết nhiều điều. Chuẩn bị cho buổi diễn thuyết đầu tiên, út Trinh bối rối quá, sợ nói không ra hồn thì mắc cỡ lắm. Nguyễn Chánh nhẹ nhàng góp ý: “Chị Trinh đừng lo lắng quá. Bài diễn thuyết đã được chuẩn bị sẵn, chỉ cần bình tĩnh nhớ kỹ mấy phần lớn, những nội dung chính, nói chuyện tự nhiên như hằng ngày chị nói chuyện với bọn tôi, là thành công thôi”. Bà tập nói riết ba ngày liền…
Trên bãi biển Mỹ Khê trăng sáng vằng vặc, đồng bào có mặt rất đông. Bà hơi run, trân trọng cất lời: “Xin kính chào đồng bào”. Bà con thịnh tình vỗ tay vang dội. Bà lấy lại bình tĩnh, lên án đanh thép thực dân Pháp xâm lược, vua quan Nam Triều bán nước, vạch trần tội ác dã man của chúng. Sực nhớ bài trù của cụ Phan Chu Trinh, bà đọc: “25 triệu, một đàn trâu, ngựa/Xô xuống hầm không cựa không la/Cướp cả nước, tịch cả nhà/…”. Bà con sôi sục hờn căm, hô to: “Đả đảo đế quốc Pháp! Đả đảo quan lại Nam Triều!”. Bà tự tin kêu gọi đồng bào đoàn kết đứng lên đánh đổ chế độ áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, đòi cải cách điền địa, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh, học tập Liên Xô; quyết giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước, nhân dân. Đồng bào hoan hô nhiệt liệt. Từ sau đó, bà được phân công đi vùng đông và về tổng Thượng quê hương, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Đoàn thanh niên cộng sản, Phụ nữ cứu quốc hiệp hội… và đấu tranh đòi quyền sống. Bà dám cùng Tự vệ đỏ “Xuất quỷ nhập thần” diễn thuyết giữa ban ngày trong chợ đông người. Bà con đồng lòng bãi chợ, bãi đò, khiến bọn quan lại địa phương thất thu thuế. Chủ đất phải trả giá công cày, công cấy, công gặt tăng gấp rưỡi, gấp đôi, nông dân mới chịu ra đồng.
Tháng 11-1930 không thể nào quên! Huyện ủy tổ chức lớn cuộc “Biểu tình truy điệu Sơn Tịnh”, nhằm tỏ thái độ phản đối địch đàn áp các cuộc biểu tình và nâng cao thêm uy thế của Đảng. Bà được giao cầm cờ chỉ huy cuộc biểu tình đông đến hai nghìn người kéo đến cổng huyện đường Sơn Tịnh. Trống mõ thúc liên hồi. Dao, rựa, đòn gánh, gậy gộc vung cao trong tiếng đả đảo vang động đất trời. Tên tri huyện Nguyễn Bính không dám chạy trốn, buộc lòng phải trực diện xin lỗi nhân dân. Hắn đổ hết tội cho cấp trên, xin hứa “Đệ trình” yêu sách đòi bồi thường nhân mạng mấy chục người bị bắn giết trong cuộc biểu tình lần trước lên bề trên giải quyết…
Được chính thức kết nạp vào Đảng, bà cảm thấy chưa bao lâu mà mình đã lớn lên như không còn ở tuổi 16.
Rút kinh nghiệm ở “Nghệ An đỏ”, địch huy động cả lính lê dương tiến hành khủng bố trắng cực kỳ dã man, ác liệt. Mùa hè năm 1931, tình hình lâm bước thoái trào. Bà được bầu làm Bí thư tổng Thượng, nhằm khôi phục các tổ chức cơ sở tan vỡ khắp các nơi ở các xã tây Sơn Tịnh. Phạm Kiệt, Nguyễn Chánh lần lượt đều bị bắt. Địch cho truy lùng bà ráo riết ngày đêm. Bà cùng một số đồng chí rút lui vào núi Hòn Dầu, tìm nơi không có dấu chân người, chỉ thấy toàn dấu chân voi, cọp… làm chòi trên cây cao để sống và tiếp tục chiến đấu. Nhiều ngày đêm, gió mưa ướt như chuột lột, lạnh buốt thấu xương. Để tránh khói bay lên bị lộ, phải ăn gạo sống, khoai khô, uống nước khe. Thương út Trinh và các đồng chí ốm đau, xanh xao, vàng vọt, các mẹ, các chị là cơ sở mật, lén lút tiếp tế cho những đòn bánh tét. Tháng 8-1931 do một tên bí thư xã đầu hàng, phản bội chỉ điểm, bà bị tên tri huyện Nguyễn Bính trực tiếp chỉ huy quân lính vây bắt. Tri huyện Nguyễn Bính, tuần phủ Nguyễn Bá Trác, án sát Nguyễn Đình Chi, chánh mật thám Lyvécxê dùng mọi chiêu độc nhất dụ dỗ, mua chuộc đều không thành công. Chúng treo bà lên đánh đập, tra tấn tàn khốc cũng không khuất phục được. Con chim sáo ở trường tra đã quen thuộc các cảnh cực hình này. Mỗi lần bà la to phản đối, con sáo lại bay lên cây kêu nhiều hơn: “Trói treo con gái! Trói treo con gái!”. Đồng bào đi ngang qua dừng chân xem đông quá, chúng nó mới ngơi tay. Cảm phục tinh thần kiên trung, bất khuất của út Trinh, nhiều lính canh nói: “Ít thấy ai như con nhỏ nầy, gan lỳ thật, lúc nào cũng cười, bị đánh đập máu me đầy người, chết đi sống lại cũng cười, kỳ lạ quá trời…”. Tên toàn quyền cáo già Pasquier cho gọi vào thẩm vấn hai nữ tù chính trị của Quảng Ngãi. Hắn không moi được điều gì ở chị Trần Thị Hiệp-người nữ tỉnh ủy viên đầu tiên của Đảng bộ tỉnh và là người cầm cờ chỉ huy cuộc biểu tình đầu tiên ở Quảng Ngãi. Ra khỏi phòng hỏi cung, chị Hiệp dặn út Trinh: “Hắn vừa muốn “gài bẫy”, vừa muốn thử trình độ của chị em mình, em cần bình tĩnh đối phó”. Út Trinh đĩnh đạc hiên ngang bẻ gãy hết những câu hỏi của toàn quyền Pasquier. Tên chánh mật thám Lyvécxê rất sõi tiếng Việt, phiên dịch cho Pasquier nghe, khiến hắn bẽ mặt, còn hai phóng viên của báo Nhân đạo (Pháp) thì tốc ký lia lịa những câu đối chất của út Trinh: “Tôi chỉ có một đất nước mẹ duy nhất là Việt Nam, không có và không chấp nhận bất cứ một “mẫu quốc” nào khác. Tôi không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng tôi ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam đã đấu tranh giànhh độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đất nước tôi. Tôi yêu đất nước tôi, tôi không muốn và phản đối đế quốc Pháp xâm lược, cai trị nước tôi. Điều đó cũng giống như trước đây nhân dân nước ông đã đứng lên chiến đấu không cho quân Đức chiếm đóng nước Pháp. Thử hỏi, thực dân Pháp bóc lột nhân dân tôi tận xương tủy, còn tôi là con gái mới 17 tuổi, chưa thành niên đã bị các ông bắt giam cầm, đánh đập dã man, vậy văn minh của các ông là văn minh kiểu gì? Ông bảo Cộng sản không có vũ khí, làm sao có thể thắng ư? Chúng tôi có sức mạnh lòng dân của 25 triệu người đứng lên chống ngoại xâm. Không có thứ vũ khí nào của các ông có thể thắng chúng tôi. Tất nhiên thắng lợi không thể đến với chúng tôi ngày một ngày hai, nhưng cuối cùng nhất định thắng lợi sẽ thuộc về chúng tôi. Ông hỏi giả sử chúng tôi thắng rồi, sẽ đối xử với người Pháp như thế nào? Tôi quả quyết với ông một lần nữa rằng, không có một sự "giả sử" nào hết. Nhất định chúng tôi sẽ chiến thắng hoàn toàn. Và khi ấy không riêng gì với người Pháp, bất cứ người ngoại quốc và nước ngoài nào thực sự ủng hộ, thân thiện với chúng tôi đều được bắt tay như người bạn, ai chống phá sẽ bị trục xuất, ai xâm lược sẽ bị trừng trị đích đáng…".
Báo Tiếng dân, đặc biệt là tờ báo Nhân đạo của Pháp, trong bài phóng sự điều tra về tình hình thuộc địa và tù chính trị ở Đông Dương đã tường thuật khá tỉ mỉ cuộc thẩm vấn này. Dư luận Pháp đánh giá rất cao Đảng Cộng sản Đông Dương và sau đó đã nổ ra cuộc biểu tình tấn công tòa nhà Quốc hội Pháp, đòi trả độc lập cho Việt
Mọi cách đều vô hiệu. Cuối năm 1932, chúng mở phiên tòa, đưa bà và hai đồng chí nữa ra xử án. Vừa tuyên án xong, bà liền đứng phắt dậy xin hỏi: "Chúng tôi là dân mất nước, đấu tranh đòi quyền sống cho mình và mọi người thì bị kết án năm, bảy năm tù, còn bọn buôn dân bán nước gieo đau khổ cho mọi người kia (bà chỉ tay vào mặt tên chánh án và bộ sậu) thì đáng kết án bao năm tù?". Bọn chúng tái mặt. Hai đồng chí đứng lên hô lớn: "Chúng tôi chống án, không công nhận bản án vô lý này!". Phiên tòa nóng rực bầu không khí phẫn nộ và khinh bỉ. Tên chánh án sợ hãi cho lính bịt mồm bà và hai đồng chí, xua tay giải tán nhanh phiên tòa.
Thời gian này, nhà lao Quảng Ngãi đã thật sự trở thành một địa ngục trần gian hòng dập tắt ngọn lửa cách mạng. Các tù chính trị đã vào đây là không mong có ngày về, nếu không bị xử tử thì cũng bị đi đày biệt xứ, ở tù chung thân hoặc giam cầm nhiều năm với chế độ cực kỳ hà khắc cho đến chết. Út Trinh tự nhủ mình: “Bao giờ chết hẵng hay. Phải tranh thủ học để không hoài phí tuổi thanh xuân”. Học tập lúc này cũng là một trận chiến đấu không kém phần quyết liệt, chỉ cần để lộ ra một mẩu giấy trắng, một đoạn bút, một trang báo, sách, lập tức bị đánh đập tàn nhẫn và tống giam vào hố xí. Bằng những cục gạch non viết trên nền xi măng, bà nhờ các chị dạy học làm các phép toán. Lợi dụng hai nhà xí của hai nhà lao nam và nữ đối diện nhau có lỗ thông hơi, nhờ các bạn tù canh gác, cứ “đến hẹn lại lên”, ông Nguyễn Chánh đã truyền giảng cho bà về cách thức làm một bài văn, về niêm luật thơ Đường, giải thích những câu hỏi về kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử v.v.. Quả thật, nhà tù đã trở thành một trường học lớn của những người Cộng sản.
Nhờ có mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp, tù nhân đoàn kết đấu tranh quyết liệt, năm 1935 Nguyễn Chánh và bà được thả về giam lỏng ở quê nhà. Quý trọng, thầm yêu nhau, cùng chí hướng và cảnh ngộ, ông, bà tìm gặp nhau và thành hôn. Phải chăng đây là nhân duyên tiền định? Trời đã xe tơ kết mối cho hai người bạn, hai người đồng chí cần phải có nhau, giúp nhau vượt qua phong ba, máu lửa để làm nên sự nghiệp lớn cho đời. Ông bà đã có những năm tháng sống bên nhau hạnh phúc nhất nhưng cũng thật ngắn ngủi. Ông được Xứ ủy chỉ định làm Bí thư Liên tỉnh ủy Quảng Ngãi-Bình Định-Phú Yên, biền biệt xa nhà. Sau cơn thoái trào, phong trào cách mạng ở Nam Trung Bộ sống lại mãnh liệt với nhiều hoạt động bí mật, công khai sinh động, phong phú. Địch theo dõi từng ngày, từng bước chân của Nguyễn Chánh. Bà sinh dày hai con, lao động quần quật suốt ngày đêm, buôn bán lặt vặt vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm công việc của Đảng giao cho, vừa dành dụm tiền chu cấp cho các đồng chí ngoài Bắc trong Nam vào ra hoạt động, tới lui cần giúp đỡ. Những lần hai con bị sốt rét, không chăn đắp đủ ấm, bà phải ôm cả hai con vào lòng, truyền hơi ấm của mình cho hai con lui cơn sốt rét tê người.
Mặt trận Bình dân đổ. Nguyễn Chánh lập tức bị bắt đi đày biệt xứ năm 1939. Năm 1940, Nhật nhảy vào Đông Dương. Dân ta một cổ hai tròng. Đến lượt bà bị tống vào nhà lao Quảng Ngãi lần thứ hai năm 1941. Đất nước ngày càng lầm than, gia đình tan nát, đoạn trường cay đắng đến tột cùng, bà làm thơ để giữ vững ý chí chiến đấu và đã sáng tác khá nhiều bài thơ hay. Đoạn đường này của bà và gia đình có những chuyện thú vị và lãng mạn ngoài sức tưởng tượng. Đó là tầm đầu năm 1945, bé gái Tuyết Minh-đứa con thứ hai của bà-nhớ mẹ quá, đòi bà ngoại dẫn đi thăm cho bằng được. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Con bé nhất quyết không chịu rời mẹ. Nhìn con rách rưới, ốm nhom, bà cũng nảy ra ý định nuôi con trong nhà lao. Lợi dụng sơ hở, bà kéo tuột con bé chạy vào phòng giam, rút con dao phay giấu kín từ lâu và giơ lăm lăm trước mặt khiến mấy tên lính canh khiếp vía cấp báo lên tên tuần phủ Nguyễn Bá Trác đến giải quyết. Đôi mắt rực lửa căm thù, tay vung con dao, bà nói to: “Ông thừa biết người cộng sản vào đây là không sợ cái chết. Ông mà tiến lên một bước, tôi sẵn sàng xả thân liều mạng với ông. Con ông được ăn sung mặc sướng, ở nhà cao cửa rộng, còn con tôi ở đây ăn cơm thiu gạo mục với mắm thối hóa dòi. Nó mới 6 tuổi, gây hại gì cho ông? Ông đã từng ra nước ngoài tham gia phong trào Đông Du nhưng trở về lại làm tuần phủ. Dù sao ông cũng là người có học thức, chẳng lẽ trong ông không còn một chút tình người nào hay sao?”. Bất ngờ vì bị vạch tội phản bội và hoạt đầu của mình, Nguyễn Bá Trác tái mặt, lùi lại một bước. Không hiểu vì còn một chút tình người hay sợ chết, vả lại hắn sắp được chuyển vào làm việc ở các tỉnh phía
Năm chống Pháp, bà làm Hội trưởng phụ nữ tỉnh và tiếp đó được bầu làm Hội trưởng phụ nữ Liên khu 5. Còn ông là Chính ủy Liên khu, đến năm 1951 được bầu vào Trung ương Đảng, Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Ông bà sinh thêm 3 con. Trách nhiệm nặng nề, bận trăm công ngàn việc ở tiền tuyến, năm lần sinh con đều không có mặt, muôn sự của gia đình ông đều cậy vào bà. Bà thấu hiểu mình hơn ai hết nghĩa vụ với đất nước và thiên chức của người mẹ, âm thầm chịu đựng và gánh vác mọi gian lao, vất vả, nhiều khi tưởng chừng không vượt qua nổi. Những năm 1930-1931, bà đã sớm rút ra kết luận: Phụ nữ là một lực lượng đấu tranh cách mạng rất mạnh mẽ và hiệu quả rất to lớn, phải giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Nhận thức đó luôn thôi thúc bà cố gắng làm hết sức mình cho sự tiến bộ không ngừng của phụ nữ. Bà gửi 5 con cho mẹ và các cô, bác nuôi giúp. Những người ruột thịt đôi bên nội, ngoại đều nghèo khổ, túng thiếu nhưng ai cũng dành hết tình yêu thương đùm bọc các cháu. Nhờ đó, bà đã cùng chị em trong các Ban chấp hành sống chan hòa, vui vẻ, một lòng đoàn kết đẩy mạnh các phong trào phụ nữ xóa nạn mù chữ; hăng hái tăng gia sản xuất, tự túc; nuôi quân đánh thắng; xây dựng đời sống mới… Bà luôn gương mẫu thực hiện "Ba cùng" sâu sát cơ sở. Bà xuống các làng biển bị giặc Pháp càn quét đốt sạch nhà cửa, ghe thuyền, mành lưới để trực tiếp tham gia cứu đói. Bà lên các vùng sâu của huyện Nghĩa Hành để xây dựng vững mạnh các tổ chức cơ sở non yếu. Có thời gian, bà còn đảm nhiệm làm bí thư chi bộ xã, dám một mình đi công tác giữa trời khuya, băng qua Truông Ổi có nhiều thú dữ mà không ai dám một mình đi đêm qua đấy.
![]() |
Hồi ức về một thời “ngày ngủ, đêm đi tuyên truyền cách mạng khi còn là cán bộ Tỉnh ủy Quảng Ngãi của bà (người thứ hai, từ phải sang) và về mỗi khi trò chuyện cùng các cụ cùng trang lứa. |
Ảnh Danh tướng Nguyễn Chánh và bà Phạm Thị Trinh chụp năm 1946 ở Quảng Ngãi, khi đó ông là Chính trị viên Đội Du kích Ba Tơ, còn bà là Tỉnh ủy viên, Hội trưởng Hội Phụ nữ Quảng Ngãi (Ảnh chụp lại).
Hễ có điều kiện là bà lội bộ cả chục, cả trăm cây số để thăm các con. Nhìn các con nheo nhóc, xanh xao, lòng bà như xát muối. Ngày ấy cầu Trường Xuân bắc qua sông Trà Khúc là mạch máu giao thông đường sắt duy nhất và quan trọng bậc nhất, máy bay địch tập trung bắn phá, thả bom nhiều lần trong một ngày, nhằm cắt đứt đường vận chuyển, tiếp tế của ta. Đi qua đó được gọi là "Đi qua cửa tử". Có một dạo, các con bà gửi nuôi ở nhà ông nội chỉ cách cầu một cây số. Vậy mà bà đã nắm thời cơ liều băng qua. Vừa đến nơi con ở, bom nổ ầm ầm phía sau. Không lo cho mình nhưng bà trào nước mắt khi thấy con gái Tuyết Minh đã đưa các em xuống hầm trú ẩn. Chừng như biết rõ vị trí của cha mẹ, hai anh em Tuyết Minh mới 13-14 tuổi đã biết bảo ban nhau học hành, làm thơ, trồng bắp, trồng khoai sắn, nuôi gà, nuôi lợn và thay cha mẹ chăm nom các em.
Gian khổ, thử thách nào bà cũng có thể vượt qua. Nhưng có một nỗi đau luôn vò xé trái tim bà không thể nào nguôi khuây. Đó là lần cơ quan ở cách xa chỗ các con hơn cả trăm cây số. Đang vào mùa chiến dịch, công việc bề bộn đêm ngày. Bà không về thăm con được. Cháu trai thứ năm của bà, từ chỗ bị viêm tai giữa dẫn đến tổn thương não, bị điếc và bị câm. Khi phát hiện ra thì đã qua muộn. Dù đã tìm đủ mọi cách nhưng vô phương cứu chữa. Bà luôn bị ám ảnh như mình thiếu trách nhiệm nên gây cho con nông nỗi này. Cậu con trai này suốt ngày quấn quýt và yêu quý bà ngoại nhất. Bà ngoại cũng yêu thương đứa cháu nhỏ bé bỏng, bất hạnh này nhất. Hôm bà ngoại sắp trút hơi thở cuối cùng, bà gắng đưa tay vuốt má hết các cháu. Đến lượt đứa cháu bị câm, bà đặt bàn tay lên đầu cháu. Bỗng từ hai hố mắt sâu của bà trào ra hai dòng nước mắt. Bà tắt thở và ra đi mà bàn tay vẫn nằm yên trên đầu cháu không chịu rời…
Hiệp nghị Giơ-ne-vơ được ký kết. Bà xin Khu ủy cho ở lại miền
Ở Thủ đô một tháng, một hôm dự giao ban nghe Nghệ An nạn đói ngày càng thêm trầm trọng, bà xin đi cứu đói, may ra có giúp được việc gì chăng? Đang mang bầu năm tháng, thuyết phục mãi, cuối cùng các chị lãnh đạo mới cho đi và giao cho bà làm trưởng đoàn. Đến xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc mới thấy hết tình hình thật khủng khiếp, phức tạp hơn nhiều so với bà tưởng. Dân xã Đoài đói đến 90%. Nhiều gia đình đói đến mức ăn rơm, đem lúa nép rang giã thành bột để ăn. Có những gia đình đói sắp chết cả nhà. Cả làng không tìm đâu ra một cọng rau má. Tàu há mồm của địch ngấp nghé ngoài bờ biển phát loa kêu gọi hỗ trợ cho bọn phản động tuyên truyền cưỡng ép đồng bào tôn giáo di cư vào
Về đến thủ đô, bà xin được báo cáo ngay tình hình với lãnh đạo và đúng năm ngày sau bà vào bệnh viện sinh cậu út. Ngày bà sinh con, ông không có mặt. Ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng được cử trở lại Liên khu 5 chỉ đạo việc tập kết quân ra Bắc. Bà vừa công tác, vừa sắp xếp việc gia đình, vừa tranh thủ học chương trình trung học phổ thông “Một năm ba lớp” của Trường Bổ túc công nông Trung ương. Sau cuộc cải cách ruộng đất, Bác Hồ và Trung ương Đảng quyết định huy động các đồng chí có trình độ trong tỉnh ủy đi sửa chữa triệt để những sai lầm đã xảy ra. Bà xin đi và được cơ quan đồng ý. Cậu út đã biết chạy, biết nói và có ông ở nhà, nên bà yên tâm. Đoàn của bà về Hà
Bà nhớ rõ: Cuối tháng 8-1957, về nhà được vài hôm, ngày Quốc khánh 2-9-1957, anh Nguyễn Chí Thanh ở gần nhà, sang chơi. Anh vui vẻ bắt tay và nói: “Nghe “Bà” đi sửa sai về sang thăm. Có chuyện gì hay kể nghe cho vui”. Bà trả lời: ‘Nếu anh cho phép, tôi xin nói thật nhận xét của tôi”. Anh bảo: “Ô hay! cái bà Trinh này, cứ nói đi chứ việc gì mà phải xin phép”. Biết anh Thanh vốn rất thẳng thắn nhưng chân thật, cởi mở, sau khi trình bày một số thống kê rõ ràng, đầy đủ, bà nói: “Thưa anh, qua đợt sửa sai ở huyện tôi công tác, tôi thấy Đảng đánh giá kẻ thù giai cấp chưa đúng thực tế. Giai cấp địa chủ ở đây không lớn như ta nghĩ. 9 năm kháng chiến, ta thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, địa chủ hưởng ứng nên ruộng đất thu hẹp lại nhiều. Địa chủ chỉ có 20 mẫu đất là cùng, họa hoằn mới có trường hợp 30 mẫu. Phần lớn chỉ có một vài mẫu ruộng, chủ yếu sống bằng buôn bán và thu thêm tô, không gây hại, chống đối gì lớn. Tôi nghĩ rằng, một khi cơ sở kinh tế không lớn, thì uy thế chính trị của nó không lớn, sự phản ứng giai cấp vì thế cũng không thể nào mạnh. Lực lượng nó nhỏ nhưng ta đề cao nó quá mức”. Anh Nguyễn Chí Thanh nói lớn: “Bà Trinh cả gan thật”, nhưng rồi anh cười khà khà giòn tan và nhắc lại: “Kinh tế kẻ thù không lớn thì uy thế chính trị của nó không lớn. Chị khá thật, chưa học lý luận mà kết luận như một nguyên lý triết học. Thôi, tôi phải về đi họp, mai “Bà” sang tôi chơi, nói chuyện tiếp nhé”. Anh siết chặt bàn tay bà.
Vào trường Nguyễn Ái Quốc chưa đầy 20 ngày, một tổn thất không gì sánh được đổ ập xuống cuộc đời bà. Đó là ngày 24-9-1957 đau thương vô hạn. Ông Nguyễn Chánh đột ngột từ trần đang độ tài năng phát triển, cả ông và bà mới ở tuổi 43. Ông được giao trọng trách làm chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, một Tổng cục mới có vị trí rất quan trọng đến sự phát triển lớn mạnh của quân đội ta. Có lẽ do việc nước, việc quân quá căng thẳng, vốn lại gầy yếu, nên ông bị đột quỵ tim mạch. Ông mất khi cậu con cả mới tròn 20 tuổi và cậu út hơn 2 tuổi. Nợ nước tình nhà đã đè nặng trĩu lên vai bà. Nhiều người thân yêu trong gia đình lo lắng lần này bà sẽ gục ngã. Nhưng không, nhớ những gì ông từng tâm sự, bà gượng dậy và đứng lên. Bà nén đau thương để tiếp tục hoàn thành chương trình khóa một của trường Nguyễn Ái Quốc. Để thuận tiện cho mình và cho đồng chí, bà trả lại khu biệt thự với vườn rộng 2.000 mét vuông ở Lý Nam Đế cho Bộ Quốc phòng, về khu của cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, ở theo tiêu chuẩn của mình và tiếp tục công tác. Ở tuổi 55, người ta vẫn thấy bà cắp cặp dự đều các lớp “Chuyên đề cụ thể” bậc đại học về kinh tế, văn-sử-địa, do các giáo sư đầu ngành giảng dạy. Ai đã từng chứng kiến cảnh sơ tán trong năm 1972, khi giặc Mỹ rải bom B52 ở Thủ đô, mới thấu hiểu hết những gian khổ vô vàn của người mẹ. Các con bà đã trưởng thành, bà vào sống luôn trong cơ quan, trực công tác và giải quyết việc sơ tán cho các cháu nhỏ về nông thôn, không nề nguy hiểm, đạp xe đạp vượt qua biết bao địa điểm bị đánh phá hết sức ác liệt. Tháng 4-1975, bà bị một cơn đau tim tưởng không qua được. Không hiểu bởi sức mạnh gì mà khi nghe tin giải phóng hoàn toàn miền Nam, bà thấy người khỏe trở lại. Bà được Ban Đấu tranh thống nhất tổ chức về thăm quê hương. Suốt một tháng trời đi khắp các làng xưa xóm cũ tiêu điều xơ xác vì chiến tranh, lòng bà đau như cắt, tìm thăm hết những người thân quen, thắp hương trên mộ những đồng chí đã hy sinh, bồi hồi xúc động biết bao khi nhớ lại thời tuổi trẻ của một cô gái sông Trà.
Trở ra Bắc, nghĩ mình đã ngoài 60 tuổi, ước mơ giành được độc lập, tự do, thống nhất đã thành công vẹn tròn, bà xin được nghỉ hưu. Bà quyết định giã từ cuộc sống nội đô tạo lập cuộc sống thôn dã trong ngôi nhà nhỏ hiện nay để thực hiện những dự kiến cho quãng đời còn lại. Thay ông làm mẹ và cả làm cha, bà thường khuyên bảo các con: “Đừng bao giờ núp bóng dưới ô dù cha mẹ để tiến thân, đừng đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải làm gì cho mình, mà hãy đi lên bằng đôi chân và tim óc của chính mình”. Các con bà cũng nhận thức sâu sắc được điều đó, 5 người đã qua trình độ đại học, trong đó có 4 người trực tiếp chiến đấu chống Mỹ trở thành cán bộ cao cấp, trung cấp trong quân đội, còn cháu bé Tuyết Minh ngày nào ở trong lao tù với mẹ là tiến sĩ khoa học. Cậu con bị câm rất sáng dạ, làm công nhân quốc phòng hoàn thành rất tốt nhiệm vụ, đơn vị ai cũng quí mến. Trong bối cảnh chung của cả nước, biết gia đình các con còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, bà bắt tay nuôi heo, gà, vịt, trồng nhiều rau, thường xuyên làm nguồn “tiếp tế” cho các con những trái bí, mướp, mớ trứng, mớ rau và cả những con gà, con vịt nặng 2-3kg. Bà còn cung cấp thực phẩm và heo giống cho các bà bạn cố tri và xóm giềng nghèo thân quen. Để xua đi nỗi ân hận day dứt trái tim bà, bằng đồng lương hưu của mình trang trải, bà sống chung với cậu con câm có vợ cũng bị câm, nuôi dạy hai cháu nội khỏe mạnh bình thường như mọi người, biết chăm ngoan học tập, giúp đỡ cha mẹ. Bà tham gia câu lạc bộ Sông Tô, viết hồi ký và viết sách.
Thật không thể ngờ được, không qua một trường lớp chính qui nào, từ những buổi “Thính giảng có một không hai” trong nhà xí của nhà lao Quảng Ngãi mà tập 35 của Tổng tập văn học Việt Nam, đã xếp riêng tên bà với tư cách một tác giả cùng với việc tuyển chọn đăng một số bài thơ hay của bà. Tôi xin ghi lại theo trí nhớ những vần thơ xao động lòng người khi bà trở về thăm quê đứng bên sông Trà, nhớ lại lúc hai tay nách hai con thơ, nhìn theo chồng bị địch bắt đem đi: “Nỗi nhớ của chúng tôi có cả hai người, Em ở đầu sông mong thuyền ngược gió,/ Sóng phủ trắng thuyền như có anh trong đó,/ Chiều nào cũng đợi thuyền lên/ Anh ở cuối sông, ngọn nước xuôi dòng/ Uống ngụm nước có lời thơ trong đó, /Anh hằng mong con thuyền xuôi gió/ có một người cùng xuôi với thuyền con/…”. Khó có thể hình dung nổi, ở tuổi bát tuần, chỉ trong vòng 4 năm, bà đã góp phần cống hiến cho hậu thế 3 cuốn sách đắt giá. Năm 1995, Nhà xuất bản Phụ nữ cho ra mắt bạn đọc cuốn hồi ký “Những chặng đường của người mẹ” kể lại một cách hết sức mộc mạc, chất phác, chân thật cuộc đời mình gắn liền với phong trào cách mạng của nhân dân và phụ nữ nước ta, ai đã được đọc đều cảm thấy tự hào và xúc động không cầm được nước mắt. Chuyện rằng, có một cậu học trò tên Ngô Như Bình học giỏi lắm và rất ham hiểu biết, đã học nghiên cứu sinh ở Liên Xô và bây giờ là giảng viên Trường đại học Harvard ở Mỹ, tình cờ đọc được cuốn hồi ký đời bà. Anh vô cùng cảm kích và yêu quí bà như người bà ruột thịt của mình. Anh dạy bộ môn Tiếng Việt cho sinh viên Mỹ. Hằng năm mỗi lần đưa sinh viên Mỹ về Việt Nam thực tập, anh đều không quên đến thăm bà, ăn với bà bữa cơm có rau muống luộc và món cá bống đặc sản của Quảng Ngãi quê bà, mê mải ngồi trò chuyện với bà mấy tiếng đồng hồ liền. Với anh và anh cũng thường nói với sinh viên Mỹ: “Ông bà là những mẫu người Việt Nam điển hình của một thế hệ hy sinh quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, là những tấm gương sáng cho hậu thế noi theo”. Tình cảm sâu đậm của anh dành cho bà gần 40 năm trời không hề suy suyển. Có một cô gái tên Phương, bạn học của con út bà, đọc được cuốn hồi ký của bà, từ bên Đức về, đã xin đến được thăm và tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Lại có một chuyện khác, nhân dịp đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2007), được đọc một bài viết ngắn trích hồi ký của bà đăng trên Báo Quân đội nhân dân của phóng viên Lan Vi, Thượng tá Lưu Xuân Lộc, Phó giám đốc Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ, Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Bộ Công an, đã hỏi tìm địa chỉ và đến thăm bà. Bà sợ hết hồn vì tưởng các cháu có việc gì mà công an đến nhà. Nhưng đến khi anh Lộc mang hoa, quà và không quên “phong bì” tặng bà thì bà mới yên tâm. Bà đón nhận hoa, quà nhưng từ chối nhận “phong bì” và nói là lương hưu của bà đã đủ sống rồi. Chấp nhận lời đề nghị chân thành của anh Lộc, bà nhận anh làm con nuôi và tặng anh cuốn hồi ký đời bà. Về nhà, anh đọc ngấu nghiến và đêm đó gọi điện thoại nói với bà trong tiếng khóc nức nở: “Mẹ ơi! Con thương mẹ quá! Sao đời mẹ lại khổ đến thế!”. Từ đó đến nay anh luôn quan tâm thăm hỏi bà. Năm 1997, bà trực tiếp tham gia giúp đồng chí Thân Hoạt (chủ biên) và nhà văn Nguyên Ngọc biên soạn cuốn hồi ức dày 600 trang “Nguyễn Chánh-Con người và sự nghiệp” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân-1997) được dư luận đông đảo đồng chí, bạn bè trong cả nước hoan nghênh. Được giao nhiệm vụ làm Trưởng ban chỉ đạo, bà giúp chị Hoàng Mai, phu nhân Đại tướng Nguyễn Quyết (chủ biên), hoàn thành cuốn sử ký “Phụ nữ Nam Trung Bộ” (Nhà xuất bản Đà Nẵng-1999), một công trình khoa học quí giá. Một lần nữa, bà lại hết sức bất ngờ khi Nhà xuất bản Phụ nữ năm 2000, đã chọn bà là một trong 10 nhà văn nữ tiêu biểu nửa đầu thế kỷ 20.
Từ một cô gái sông Trà quê mùa, mù chữ, bà đã phấn đấu vươn lên thành một cán bộ lãnh đạo ưu tú, một trí thức cách mạng giàu uy tín, một người mẹ bao dung, nhân hậu tuyệt vời, một tấm gương sáng ngời của phụ nữ Việt Nam thế hệ Hồ Chí Minh: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Cuộc đời bà thật giản dị nhưng lớn lao quá! Còn nhiều chuyện kỳ thú không thể viết hết. May mắn được trò chuyện với bà và chiêm nghiệm những bài học ở bà, tôi bỗng liên tưởng đến cốt cách của loài hoa và loài người. Hoa không biết nói. Nó không bao giờ biết nhờ cậy nắng gió để lan tỏa sắc hương, chỉ biết lặng lẽ làm đẹp cho đời để đền đáp công ơn bàn tay người vun trồng, chăm bón nó. Đó là cốt cách loài hoa. Còn vẻ đẹp trên tất cả những vẻ đẹp ở bà, theo tôi, đó là nhân cách; nhân cách là cốt lõi của loài người. Triết học phương Đông và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã cho ta hiểu biết sâu sắc rằng: Xét cho cùng, thì không phải là cấp bậc, địa vị, danh vọng, tiền bạc, vinh hoa, phú quý, mà chính là nhân cách mới để lại ấn tượng sâu đậm, đẹp đẽ nhất về một con người. Bà đã rung động tận nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn tôi bởi một nhân cách cao đẹp, phi thường, nhân cách của một con người trọn đời vì nước vì dân trên hết; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cao cả cho lý tưởng cách mạng; không hề tơ hào, đòi hỏi đặc ân cho cá nhân; tự lực tự cường đi lên bằng đôi tay, trí óc và trái tim mình; sống vì hạnh phúc của mọi người và lấy hạnh phúc của mọi người làm nguồn hạnh phúc của chính mình; luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi việc làm có ích, dù là nhỏ nhất; lối sống của một nhân cách như vậy thật giản dị, đẹp đẽ và thanh cao biết bao!
Cô gái sông Trà yêu quí của chúng tôi-cụ bà Phạm Thị Trinh là một người như thế.