Má Tư anh hùng

12/01/2010
Đối diện căn nhà cấp bốn của má là công viên nhỏ xinh xắn nằm trên đường Lê Lợi, TP Cần Thơ. Má hay ngó lung qua đó. Trong tận sâu thẳm của lòng, hình ảnh của chồng, con cứ bừng lên rạng rỡ.

Má sinh tám con, sáu người đã lần lượt "ra đi". Một bệnh chết từ nhỏ, hai bị giặc bắn chết cũng từ nhỏ, ba người con trai và cả chồng hy sinh. Nỗi đau tột cùng đó, ai cũng nghĩ rằng má không thể vượt qua.

Nhưng không ngờ người phụ nữ  ấy lại tiềm ẩn một ý chí, một sức sống đến mãnh liệt. Ba mươi năm lăn lộn tranh đấu trong vòng kiểm soát của kẻ thù, má vẫn vững vàng công tác và trọn vẹn  niềm tin ngày mai tất thắng.

Má là con thứ tư, tên Tạ Thị Tư, sinh năm 1926. Bé Tư có 8 chị em, cả gia đình 10 người sống trong căn nhà lá bé tẹo ngay đầu kinh Số Một, ven sông Trẹm. Cha mẹ của Tư làm tá điền, ngoài mùa lúa phải còng lưng làm mướn đủ việc từ hừng đông cho đến tối mịt, ấy thế mà vẫn đói ăn triền miên.

Đàn bà mấy ai được như má?

Năm 19 tuổi, cô Tư có chồng - ông Nguyễn Thân Thiện công tác tại Ban điêu khắc của Tỉnh ủy, chuyên khắc hình Bác Hồ, khắc mộc giả làm căn cước cho cán bộ hoạt động hợp pháp. Hồi đó hai nhà ở gần, ông đen thui, xấu trai nhưng được tính. Cưới nhau xong, Tư vào công tác phụ nữ tại xã nhà, bắt đầu một chặng đường dài tham gia kháng chiến cứu nước đầy chông gai thử thách.

Ông Nguyễn Thành Kính, cán bộ hưu trí phường 4, tỉnh Sóc Trăng, cùng hoạt động với má, cho biết: "Trong quá trình hoạt động bà Tư đi sâu vào lòng địch, mang nhiều tài liệu, bích chương, biểu ngữ, truyền đơn chống Mỹ. Đồng thời cung cấp cho tổ chức mật sơ đồ vị trí đồn bót, vũ khí quân số, tình hình địch, nắm vững ngày giờ, mục tiêu của địch đi càn quét, để cơ sở nghiên cứu, có biện pháp chống càn, diệt ác, phá kềm".

Bảy lần bị giặc bắt, má dứt khoát thà chết vẫn giữ một dạ trung thành. Năm 1957, tên quận trưởng Thới Bình đi thăm vợ bé bị quân ta phục kích bắn chết, địch điên tiết gom dân lại bắt để tang. Má cương quyết: "Nó nhỏ tuổi hơn tui, nó chết làm sao tui phải để tang?". Cũng ngay trong đêm đó, má “quơ” cả gia sản của mình là cái soong nấu cơm, cái ấm nấu nước rồi khua chèo chở 4 con “bỏ xứ”, chuyển vùng công tác.

Về U Minh, má vào làm ở công binh xưởng. Tuy rằng chung cơ quan với chồng nhưng vợ chồng mỗi việc khác nhau, nơi ở cũng khác nhau. Chồng đóng quân ở đâu, theo nguyên tắc bí mật má không được biết.

Phần má, cơ quan cấp miếng đất ngay vàm Ba Tĩnh, vừa làm ruộng nuôi con vừa tiếp tục hoạt động. Hằng ngày má đi tiếp liệu, tiếp phẩm, mỗi lần đi mua cả trăm lít xăng dầu, cả chục táo gạo.

Nếu gặp lính tra hỏi, má nói mua về bán lại kiếm lời nuôi đàn con nhỏ nhít. Năm 1968, má nhận nhiệm vụ ra chợ Cà Mau mua chì với số lượng lớn để bộ đội làm vũ khí, lính phát hiện bắt giam tại Khám Lớn 18 tháng.

Năm 1971, theo mệnh lệnh cấp trên, má về Binh vận Khu Tây Nam Bộ, cơ quan đóng nhiều nơi trên địa bàn Cà Mau vì phải thường xuyên di chuyển để tránh pháo giặc. Thời kỳ này, giặc leo thang chiến tranh, chúng rải bom đạn như trấu trong vùng giải phóng, đất rừng U Minh người chết nhiều vô kể. Trong đó có ông nông dân tên Bảy Một ở bên Sào Lưới bị bom dầu cháy chết, khét đen, trông thật thảm khốc.

Để tố cáo tội ác tày trời của giặc, má vận động phụ nữ, ôm lư hương, khiêng thi thể ông Bảy kéo đến dinh tỉnh trưởng tại thị xã Cà Mau. Trên đường đi, má kêu gọi người dân cùng mạnh dạn tranh đấu lên án hành động man rợ của kẻ thù.

Cả đoàn toàn phụ nữ ra yêu sách, phải chôn cất tất cả người chết, không được bỏ bom, bắn phá giết hại đồng bào vô tội. Nhớ những lần đi đấu tranh trực diện, có thời kỳ má đang mang thai, có khi con chỉ được vài tháng tuổi phải gởi các chị hàng xóm, bị tụi lính kéo ra đánh túi bụi, có lúc bị lính quất bằng roi cá đuối, vậy chớ vẫn gan lì còn thản nhiên nói, đi mà chết tui cũng không sợ. Bởi thế mà nhiều người cho rằng: Đàn bà xóm này ít có ai như bà Tư!

Dù không được học hành nhưng làm gì má cũng suy tính kỹ lưỡng, thấu đáo, nghĩ trước hết đến lợi ích cách mạng. Má vận động binh lính ngụy hiểu đâu là đường chính nẻo tà, trong số đó có trung úy ngụy tên Nguyễn Văn Hỷ làm quân y tại Sóc Trăng đã quay về với cách mạng rồi anh tham gia hoạt động nội thành. Sau ngày giải phóng là cán bộ trưởng phòng kế hoạch của huyện Thới Bình.

Tài liệu, thuốc men khi vận chuyển thường được nhét vào chân bàn, chân ghế, những thứ cồng kềnh này, tụi lơ xe quăng lên mui. Má nói trời đang tháng hạn, nắng nóng gỗ nứt, bung thuốc ra là bể chuyện, cứ nhét vào mấy ván thớt dầy, bỏ lăn lóc dưới chân không ai thèm để ý mà an toàn. Hoặc má bảo làm cái lon hai đáy, ngăn dưới để tài liệu, ngăn trên má ăn trầu nhổ nước bọt vô, tụi lính gớm hổng thèm xét đâu.

Hồi còn ở Công binh xưởng đi chà gạo, mỗi lần chở năm mươi giạ lúa, gặp nước cạn má ì ạch đẩy xuồng, mệt quá chỉ biết kêu trời. Thằng con Thống Nhứt mới sáu tuổi ngồi ở lái xuồng, cứ đỏ đẻ: "Sao má đi làm cách mạng mần chi, khổ muốn chết, rồi kêu trời không hà!". Nghe con nhỏ nói vậy, má thấy tức cười quá quên luôn mệt, rồi nghĩ lại càng thương con, vì theo má mà phải chịu cực khổ.

Hiên ngang bước qua nỗi đau

Nói về con, má nhớ rành rạch, thằng hai, thằng ba, thằng tư, thằng năm, con sáu, thằng bảy, con tám, con út. Má còn nghe đâu đây từng lời nói thương yêu đằm thắm của chồng con mình. Những âm thanh quen thuộc đó cứ vọng vào ký ức từng hồi ray rứt đến xé lòng...

Ngày chồng có tên trong danh sách tập kết, má vừa mừng vừa lo. Nỗi mừng lo chưa hết thì có quyết định mới, Đảng ủy rút ông lại vì nhiệm vụ quan trọng, đưa về làm Phó Giám đốc Công binh xưởng của tỉnh.

Má kể: “Ổng thương vợ con lắm! Lần đó nghe tui bệnh, ổng chạy về thăm. Sáng sớm, trước khi đi còn dặn, má thằng Tâm à, bệnh phải đi bác sĩ, ráng mà lo trị bệnh nghen. Nói rồi ổng về đơn vị, chừng một giờ sau có tin ổng hy sinh, đó là năm 1962”.

Má nhìn xa xăm, lặng đi một chút, má kể tiếp về những đứa con, giọng nghe như những lời ru buồn thăm thẳm.

Năm 1960, má chở gạo về gần tới đơn vị thì nghe tiếng đầm già, chưa kịp ngụy trang, tiếp sau là hai chiếc còng cọc lao tới nả đạn đỏ rực. Chỉ kịp ẵm con nhỏ Hòa Bình, 5 tuổi, chui vào cụm điên điển, bế con lên đùi lấy tay che đầu cho con bớt sợ. Nào ngờ viên đạn đi thẳng vào bàn tay má, xuyên qua đầu con, trổ luôn xuống đít rồi ghim lại trên bắp đùi của má, con bé không kịp nhắm mắt. Năm 1968, tin dữ lại đến, anh Toàn Thắng mười sáu tuổi là hạ sĩ quan, hy sinh.

Trong vòng ba mươi chín ngày, từ tháng chạp năm 1970 đến tháng giêng năm 1971, ba đứa con nữa vĩnh viễn lìa xa mẹ. Chị Ngọc Ánh mười tuổi, đang chơi trong vườn, bị lính nhảy dù bắn chết. Một tháng sau, chưa kịp biết tin em gái mất, anh Chí Tâm hy sinh. Chín ngày sau nữa, địch tiếp tục đổ quân càn quét, anh Chí Hiếu là du kích xã Khánh Lâm (U Minh) đã hy sinh trong tư thế hiên ngang đang bắn trả kẻ thù.

Hơn 10 ngày nằm mê sảng, đến khi gượng dậy được, má lặng thinh không nói một lời. Lục đục đi tìm ván rồi tự tay đóng bịt lại chiếc xuồng bị giặc bắn bể còn có một nửa, móc đất sét trét tạm những lỗ mọt. Hơn hai tháng trời, sáng qua Khánh Lâm, chiều về Ba Tĩnh, nơi có những phần mộ con nằm. Má ngồi đó lặng lẽ khóc, bàn tay xoa xoa nhè nhẹ lên những lớp đất còn nhão ướt mùi bùn. Mọi người đinh ninh: Lần này chắc bà Tư khùng thiệt rồi!

Càng đau đớn nhớ thương chồng con, má càng căm ghét chiến tranh đã đẩy hàng vạn gia đình lâm vào cảnh khốn cùng, tan nhà nát cửa. Để những đứa con yêu của má phải lần lượt cầm súng chiến đấu khi tuổi tròn mười bốn. Má nói: “Cha tụi nó cho đi, tới lượt đứa nào đi, tui cũng dặn làm cách mạng cực khổ lắm nghen con, đi là không được chùn bước, không bỏ nửa chừng. Vậy đó là đi!”. Các anh đi và đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ.

Hồi đó nhà nghèo, nghèo đến nỗi không có được cái áo lành cho con. Thằng Tâm thèm đường, chỉ nói:

- Má mua cho con cục đường đi!

- Chi vậy con?

- Để con làm thuốc câu mồi.

Biết con trẻ thèm ăn đường, nhưng má không dám mua, tiền dành mua dầu lửa đốt đèn, không dám xài phí. Tội nghiệp thân anh, mới tám tuổi đầu đã tiếp má làm ruộng, đốn củi, năm xuồng củi đầy mới đổi được một táo gạo. Mười bốn tuổi anh Chí Tâm được cha dẫn đi, mười tám tuổi vào Đảng; hai mươi tuổi là chi ủy viên, phó quản đốc của Công binh xưởng. Cho đến bây giờ, má vẫn còn ủ kỹ cái áo của anh, một cái áo đầy miếng vá!

Chồng chết, con chết, mẹ sợ, vội vã nhắn anh Chí Hiếu về nhà rồi lén ném cây súng xuống ao, tính trong bụng cho nó hư để con mình không đi nữa. Ai dè anh mò lên chùi sạch rồi nói: “Má ơi! Con lấy cây súng này tới ngay đồn bắn cho tụi nó chết!”. Nói rồi anh đi một nước về cơ quan, vài ngày sau hy sinh…

Hơn hai tháng trời như người mất hồn, ai an ủi, khuyên lơn gì cũng lặng thinh, rồi đột nhiên má tỉnh táo lạ thường, chở 2 đứa con còn lại về Thới Bình gửi ngoại. Từ đó lao mình vào công tác, bất kể thử thách nào má cũng vượt qua. Má nghĩ, đó là cách trả thù có ý nghĩa nhất, phải góp sức chung tay cùng dân tộc kéo ngày mai nhanh gần lại…

Sau giải phóng, má về công tác quản trị Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cần Thơ đến năm 1980 về hưu. Tuổi cao, thương tật hành hạ kéo dài, má vẫn đi học văn hóa để biết làm những phép tính, biết đọc sách báo, nắm bắt tình hình thời sự... Má còn tham gia tốt sinh hoạt, đóng góp cho các phong trào địa phương, dạy bảo con cháu mình cũng như má đã nỗ lực học tập, công tác  tốt, xứng đáng là con cháu của Bác Hồ.

Má nói trải qua những tháng ngày cực kỳ gian khổ đau thương đó, má vẫn đứng vững là nhờ niềm tin son sắt vào Đảng, vào Bác Hồ./.

Theo Camau online

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video