Nỗ lực nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong công việc chăm sóc không trả công tại Việt Nam
 Cán bộ y tế tuyên truyền kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ dân tộc thiểu số. (Ảnh: UN Women) Tóm tắt
Mục tiêu số 5.4 “Bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ và chăm sóc gia đình; công nhận việc nội trợ và các chăm sóc không được trả phí; tăng cường các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính sách bảo trợ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em” là một trong 115 mục tiêu trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (ban hành kèm theo Quyết định 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017). Theo đó, việc bảo đảm bình đẳng ghi nhận công việc chăm sóc không trả công là một trong những mục tiêu quan trọng nhằm rút ngắn khoảng cách giới giữa các thành viên trong gia đình và là trách nhiệm mà các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cũng như mỗi cá nhân từng bước phấn đấu. Bài viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu thứ cấp và tổng hợp các kết quả giám sát của Trung ương Hội LHPN Việt Nam năm 2023 tại 09 tỉnh/thành và 01 bộ, ngành về việc thực hiện Mục tiêu số 5.4. Bài viết tổng kết những kết quả thực hiện mục tiêu của Hội LHPN Việt Nam; đồng thời phân tích những thách thức trong bối cảnh hiện nay, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị trong thời gian tới.
Từ khoá: Bình đẳng giới; phát triển bền vững; việc chăm sóc không được trả công; phụ nữ.
1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập và phát triển, bình đẳng trong công việc chăm sóc không trả công là một trong những chủ đề được sự quan tâm của nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia. Kết quả số liệu điều tra lực lượng lao động ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, phụ nữ dành 2,69 giờ mỗi ngày để làm công việc chăm sóc không được trả lương, trong khi nam giới chỉ dành 1,28 giờ mỗi ngày để thực hiện những công việc này. Tuy nhiên, năm 2020, sự chênh lệch về thời gian làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả phí giảm xuống, theo đó, nữ mất 2,47 giờ/ngày và nam giới là 1,60 giờ/ngày. Năm 2021, trước tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, do áp dụng chính sách giãn cách xã hội, người lao động làm việc tại nhà, nên phụ nữ vừa phải đảm nhận công việc công ty/cơ quan của mình, và thời gian thực hiện các công việc chăm sóc gia đình chắc chắn tăng lên. Theo kết quả điều tra lực lượng lao động năm 2021, phụ nữ dành 2,51 giờ/ngày và nam giới dành 1,34 giờ/ngày để làm những công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả phí, số liệu này vào năm 2022 với nữ và nam lần lượt là 2,35 giờ/ngày và 1,32 giờ/ngày. Theo kết quả số liệu của module mở rộng từ điều tra lao động việc làm năm 2023, số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của nữ giới là 16,13 giờ/tuần, nam giới là 8,75 giờ/tuần. Kết quả này cho thấy nỗ lực về việc giảm số giờ trung bình làm công việc chăm sóc không được trả công của phụ nữ đã được quan tâm, tuy nhiên vẫn có những thay đổi giữa các năm. Hiện chỉ tiêu này chưa đạt được so với các mục tiêu đề ra năm 2025.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động một cách sâu rộng và toàn diện tới mọi mặt của đời sống, xã hội. Bên cạnh đó, sự xuất hiện và diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đến sinh kế và đời sống của các hộ gia đình và người dân; đồng thời tác động nghiêm trọng đến các thành tựu bình đẳng giới. Những con số trên phần nào đã cho thấy kịch bản khó đoán trước của vấn đề bình đẳng giới nói chung ở Việt Nam những năm gần đây.
Bài viết nhằm nêu bật những kết quả đã đạt được cũng như những khó khăn, thách thức mà Chính phủ Việt Nam, các cấp, các ngành, đoàn thể trong đó có Hội LHPN Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới thông qua Mục tiêu 5.4 và từ đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong thời gian tới.
2. Những nỗ lực nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong công việc nội trợ và chăm sóc không được trả phí tại Việt Nam
2.1. Việc thể chế hoá các quy định về bình đẳng giới trong công việc nội trợ và chăm sóc không được trả lương tại Việt Nam
Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới nói chung và bảo đảm bình đẳng giới trong công việc nội trợ và chăm sóc không được trả lương. Luật hóa việc ghi nhận công việc chăm sóc không trả công, coi đó như một hoạt động tạo giá trị gia tăng cho xã hội. Cụ thể:
Luật Bình đẳng giới 2006 quy định một trong những trách nhiệm của gia đình là “Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình” (Khoản 5 Điều 18); “Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công việc gia đình” (Khoản 2 Điều 33) hay quy định về việc sử dụng thời gian cho phép để chăm sóc con ốm: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật” (Khoản 3 Điều 18).
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có nhiều tiến bộ khi luật hoá công việc nội trợ được tính là lao động có thu nhập để làm căn cứ giải quyết các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng “việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con cái; công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi là lao động có thu nhập” (Khoản 2 Điều 16) cũng như trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình giữa nam và nữ: “Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình” (Khoản 2 Điều 7).
Đặc biệt, Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững đã đề ra mục tiêu 5.4 nhấn mạnh: “Bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ và chăm sóc gia đình; công nhận việc nội trợ và các chăm sóc không được trả phí; tăng cường các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính sách bảo trợ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em”. Lộ trình thực hiện mục tiêu 5.4 đặt ra tỷ lệ thời gian làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả công của phụ nữ so với nam giới vào các thời điểm năm 2020, 2025 và 2030 lần lượt là 1,5 lần; 1,4 lần và 1,3 lần. Lộ trình này đã được điều chỉnh lại vào năm 2023 theo Quyết định số 841/QĐ-TTg ngày 14/7/2023, theo đó, tỷ lệ thời gian làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả công của phụ nữ so với nam giới là 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phê duyệt và triển khai nhiều chương trình, đề án để thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới như: Chương trình “Phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2025”; Đề án “Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025”; Chương trình “Truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030”; Chương trình “Phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025”; Chương trình “Giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình đến năm 2030”; Chương trình MTQG “Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030”; Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027” (Đề án 938); Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025” (Đề án 939), Đề án “Hỗ trợ Hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030” (Đề án 01)...
Có thể thấy rằng, Chính phủ đã đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới nhằm góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có các chính sách nhằm từng bước rút ngắn khoảng cách giới trong thực hiện công việc chăm sóc không trả lương.
2.2. Kết quả cụ thể trong thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong công việc nội trợ và chăm sóc không được trả lương tại Việt Nam
2.2.1. Sự tham gia của chính phủ, bộ ngành, địa phương
Thông qua kết quả giám sát trực tiếp tại 02 tỉnh/thành (Tuyên Quang, Cần Thơ) và qua văn bản của 01 bộ và 07 tỉnh/thành (Lai Châu, Hải Phòng, Hà Nam, Thừa Thiên - Huế, Bình Phước, Lâm Đồng, Cà Mau) năm 2023 của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, cho thấy, các Bộ, ngành, địa phương đã bám sát Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030.
Một số hoạt động cụ thể trong thực hiện mục tiêu 5.4 của Hội và các Bộ, ngành địa phương như:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về quyền bình đẳng trong công việc chăm sóc không được trả phí và công việc nhà giữa các thành viên trong gia đình. Bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ, chăm sóc gia đình được các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương, tích cực tuyên truyền hàng năm, đặc biệt là tập trung nhiều trong giai đoạn diễn ra Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Qua 7 năm triển khai (2016 – 2022), tháng Hành động vì bình đẳng giới đã có hơn 15 triệu lượt người được truyền thông, tiếp cận với các thông điệp, góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của cán bộ và người dân đối với công tác bình đẳng giới (Bộ LĐTB&XH, 2023).
Ban hành các VBQPPL liên quan nhằm tăng cường thúc đẩy việc nâng cao nhận thức và thực hiện tốt quyền bình đẳng trong công việc chăm sóc không được công. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tham mưu lồng ghép mục tiêu này vào Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019.
Ở một số địa phương, UBND cấp tỉnh quan tâm, tập trung chỉ đạo triển khai mục tiêu 5.4 Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 một cách nghiêm túc, đồng bộ, kịp thời, từ văn bản triển khai thực hiện của UBND tỉnh đến các văn bản triển khai thực hiện của các sở, ngành chuyên môn. Cụ thể: có 08/09 tỉnh/thành ban hành văn bản triển khai thực hiện Quyết định số 622/QĐ-TTg; 01 tỉnh chưa ban hành được Kế hoạch.
Bảng 2.1: Số lượng văn bản ban hành của các tỉnh/thành triển khai thực hiện Quyết định số 622/QĐ-TTg
|   TT  |    Tỉnh/thành  |    Số văn bản ban hành  |    Số văn bản  |  
|   1  |    Lai Châu  |    01  |    Kế hoạch số 1640/KH-UBND ngày 13/8/2019  |  
|   2  |    Tuyên Quang  |    01  |    Kế hoạch số 80/KH-UBND ngày 25/9/2017  |  
|   3  |    Hà Nam  |    01  |    Kế hoạch số 3926/KH-UBND ngày 28/12/2018  |  
|   4  |    Cà Mau  |    01  |    Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 25/01/2018  |  
|   5  |    Hải Phòng  |    01  |    Kế hoạch số 2894/QĐ-UBND ngày 30/10/2017  |  
|   6  |    Huế  |    0  |    Kế hoạch số 230/KH-UBND ngày 09/11/2017  |  
|   7  |    Bình Phước  |    0  |    
  |  
|   8  |    Lâm Đồng  |    01  |    Quyết định số 2077/QĐ-UBND ngày 25/9/2019  |  
|   9  |    Cần Thơ  |    01  |    Kế hoạch số 27/KH-UBND ngày 01/02/2018  |  
|   
  |    Tổng cộng  |    08  |    
  |  
(Nguồn: Hội LHPN Việt Nam, Báo cáo số 277/BCGS-ĐCT ngày 14/12/2023)
Xây dựng và vận hành mô hình “Bàn tay yêu thương của cha” được xem là một nhiệm vụ nhằm hiện thực hóa Mục tiêu 5.4 với mục đích tăng cường sự tham gia của nam giới trong chia sẻ việc nhà, thúc đẩy, động viên nam giới tham gia các lớp học tiền sản, chăm sóc, nuôi dưỡng con... Tổng hợp báo cáo giám sát tại 9 địa phương cho thấy, Hà Nam là tỉnh đã thành lập và duy trì được 12 Câu lạc bộ “Người mẹ mẫu mực, bàn tay yêu thương của cha”. Các tỉnh, thành khác triển khai nhiều mô hình tương tự, hướng tới mục tiêu chung là nhằm tăng cơ hội gắn bó, hỗ trợ nhau giữa các thành viên trong gia đình. Một số mô hình nổi bật có thể kể đến như mô hình “Người cha trách nhiệm”, “Nhóm cha mẹ có con từ 0 - 8 tuổi”, “Cha mẹ nuôi dạy con tốt”, “Ông bố có con tuổi vị thành niên”.
Tỷ lệ thời gian làm công việc chăm sóc không được trả công đang có xu hướng giảm, tiệm cận với mục tiêu cần đạt được vào năm 2025. Kết quả số liệu điều tra lực lượng lao động ở Việt Nam năm 2019, 2021, 2022 và 2023 cho thấy, khoảng cách giới trong công việc chăm sóc không lương từ 2,1 lần năm 2019 giảm xuống 1,8 lần năm 2022 và 1,78 lần năm 2023. Tuy nhiên năm 2021, tỷ lệ này tăng lên 1,9 lần do đại dịch Covid 19. Kết quả này cho thấy để đạt được Mục tiêu 5.4 đòi hỏi cần có các giải pháp quyết liệt hơn trong thời gian tới.
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ thời gian làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả công của phụ nữ so với nam giới

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020, 2021, 2022, 2023, 2024 - Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững)
2.2.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Đối với Hội LHPN Việt Nam, trong nhiệm kỳ 2017 - 2022, Hội LHPN các cấp đã đề xuất nhiều chính sách, chương trình, đề án tập trung vào an sinh xã hội, thể chế hóa quy định pháp luật về bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và tổ chức Hội. Trong đó, cấp tỉnh/thành đã đề xuất được trên 600 chính sách/đề án/chương trình (Hội LHPN Việt Nam, 2022). Một số đề án có liên quan tới mục tiêu như Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 - 2027” (Đề án 938); Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” trong Chương trình MTQG “Xây dựng nông thôn mới”, Dự án về thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em trong Chương trình MTQG “Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030” (Dự án 8) đã khẳng định vai trò nòng cốt của tổ chức Hội trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ.
Bên cạnh đó, Hội LHPN Việt Nam còn phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham gia ban soạn thảo và tổ biên tập xây dựng các văn bản liên quan về lĩnh vực gia đình như: Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030; Chương trình quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình trong tình hình mới; Đề án thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia về dân số và phát triển; Tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Trung ương Hội đã cử thành viên tham gia Ban soạn thảo Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới quốc gia do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và đóng góp ý kiến đối với chỉ tiêu 5.4. Lần đầu tiên tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV đã dành thời gian để thảo luận Báo cáo việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Trong công tác bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ và chăm sóc gia đình; công nhận việc nội trợ và các chăm sóc không được trả phí, các cấp Hội đã tích cực triển khai các hoạt động tuyên truyền thông qua các phong trào thi đua, cuộc vận động, chương trình, đề án nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, phụ nữ và cộng đồng, đặc biệt là nam giới về giáo dục đời sống gia đình, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, bình đẳng giới và phân công lao động trong gia đình...
Việc lồng ghép thực hiện Mục tiêu 5.4 trong chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành/lĩnh vực
Nhiệm kỳ 2017-2022, Trung ương Hội đã triển khai lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong gia đình vào các phong trào thi đua, cuộc vận động, chương trình, đề án của Hội một cách đồng bộ, toàn diện, có kết quả thiết thực.
Kết quả nổi bật: các cấp Hội tổ chức được 709.533 cuộc truyền thông với 64.768.170 người tham dự về các chủ đề về bình đẳng giới, tiêu chí ứng xử, phòng chống bạo lực, kỹ năng tổ chức cuộc sống, xây dựng gia đình hạnh phúc,... 675 cuộc Hội thi, mít-tinh, hội nghị, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề với 8.267.809 người tham gia; Tổ chức sinh hoạt chi/tổ hội: 5.316.590 cuộc/29.146.740 người tham gia tiêu biểu như Hội thi “Các vấn đề gia đình thời nay - Xây chắc nếp nhà”; Ngày hội “Văn hóa gia đình - truyền thống và hiện đại’’; nói chuyện chuyên đề “Chia sẻ bí quyết đồng hành cùng con; hội thi “Thể thao gia đình”, “Gia đình hiểu ý”;“Nam công vào bếp”; triển lãm, trưng bày các sản phẩm dành cho gia đình và do gia đình tự làm, gian hàng ẩm thực mang tính gắn kết các thành viên trong gia đình, xây dựng và nhân rộng mô hình dịch vụ gia đình... Từ các hoạt động này, nhận thức của cán bộ, hội viên và cộng đồng về bình đẳng giới trong gia đình được nâng cao, chuyển biến tích cực.
Nhằm góp phần thực hiện tốt các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình, các cấp Hội luôn chú trọng công tác tăng cường các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính sách bảo trợ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em thông qua hoạt động xây dựng, duy trì, nhân rộng các mô hình dịch vụ gia đình, hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc. Nổi bật như: đã có 3.450 mô hình dịch vụ gia đình; 18.239 CLB “Gia đình hạnh phúc”; 12.935 chi hội phụ nữ “5 không, 3 sạch”. Ngoài ra, một số mô hình hiệu quả cũng được các cấp Hội triển khai như: Mô hình “Giáo dục kiến thức, kỹ năng làm cha mẹ” cho các ông bố, bà mẹ có con dưới 16 tuổi. Tiêu biểu như CLB: “Người mẹ mẫu mực, bàn tay yêu thương của cha”, “Nhóm cha mẹ có con từ 0 - 8 tuổi”, “Cha mẹ nuôi dạy con tốt”, “Ông bố có con tuổi vị thành niên”… Trong khuôn khổ Đề án 938 “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 - 2027”, Trung ương Hội xây dựng mô hình câu lạc bộ “Người mẹ mẫu mực, bàn tay yêu thương của cha”. Điển hình tại tỉnh Hà Nam, Hội LHPN các cấp tỉnh Hà Nam đã triển khai, nhân rộng và nâng cao chất lượng hoạt động đối với 12 CLB “Người mẹ mẫu mực, bàn tay yêu thương của cha”. Bên cạnh đó, mô hình dịch vụ gia đình đã đáp ứng phần nào nhu cầu của gia đình và phụ nữ, giúp chị em yên tâm lao động, sản xuất và giúp phụ nữ nông thôn có việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống gia đình. Báo cáo của 63 tỉnh/thành có 3.263 CLB nấu cỗ/1.5023 thành viên; 151 CLB đưa đón trẻ đi học/830 thành viên; 448 nhóm trẻ gia đình/2222 thành viên, 162 mô hình giúp việc gia đình/1263 thành viên. Các loại hình mô hình, CLB nói trên đã trở thành những giải pháp hiệu quả giúp các ông bố, bà mẹ được cập nhật kiến thức, giao lưu, hỗ trợ nhau để nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc, đồng thời tạo điều kiện, cơ hội về thời gian vật chất cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động học tập, lao động, sản xuất tăng thu nhập và củng cố địa vị của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
2.3. Một số khó khăn, thách thức
2.3.1. Nhận thức của xã hội về vai trò và tầm quan trọng của công việc chăm sóc không được trả phí và công việc nhà còn hạn chế
Công việc chăm sóc không trả lương vẫn bị xem là trách nhiệm của phụ nữ và do phụ nữ đảm nhận vai trò chính. Phụ nữ vẫn giữ vai trò kép “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong thu hẹp khoảng cách giới trong giáo dục, sức khoẻ và việc làm, khuôn mẫu về phân công lao động theo giới biến đổi hạn chế.
2.3.2. Khái niệm “các chăm sóc không được công” chưa được định nghĩa một cách rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật
Hầu hết các quy định về công việc chăm sóc không được trả công đều được ban hành trước thời điểm ra đời của Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/7/2017 và mới chỉ được đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 (Mục tiêu 3, chỉ tiêu 1 về giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ so với nam giới). Đặc biệt, công việc nội trợ được coi là lao động tạo ra thu nhập nhưng chỉ áp dụng trong phạm vi rất nhỏ khi giải quyết quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình mà chưa được tính toán trong hệ thống an sinh xã hội chung là một khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu.
2.3.3. Chi phí của dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em cao là một rào cản lớn đối với việc sử dụng dịch vụ.
Tuy có các dịch vụ công cộng, dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em nhưng do điều kiện kinh tế để chi trả thuê mướn dịch vụ này nên đa số phụ nữ chưa có điều kiện sử dụng nhiều vì kinh tế, thu nhập bản thân không đủ khả năng chi trả khi thuê (UBND thành phố Cần Thơ, 2023). Sự thiếu hụt về trường lớp và giáo viên trong khu vực công và chi phí lớn trong khu vực tư cũng là yếu tố cân nhắc sử dụng dịch vụ tư từ đó gia tăng gánh nặng lên vai người phụ nữ.
2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ đặc biệt là chăm sóc trẻ em chưa thực sự thường xuyên, chặt chẽ dẫn tới việc nhiều gia đình không yên tâm khi sử dụng các dịch vụ này.
Mặc dù việc tổ chức, hoạt động của các cơ sở giáo dục mầm non nói chung, cơ sở mầm non ngoài công lập nói riêng đã có quy định, tuy nhiên, trong quá trình vận hành tại các địa phương, công tác kiểm tra, giám sát chưa thực sự thường xuyên, chặt chẽ nên để xảy ra nhiều vụ việc nghiêm trọng tại các cơ sở giáo dục mầm non tư thục. Điều này ảnh hưởng tới tâm lý gửi trẻ của các gia đình, đặc biệt là những người lao động có thu nhập thấp.
2.3.5. Hầu hết các địa phương chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ về sử dụng thời gian thực hiện công việc nội trợ và chăm sóc gia đình, do vậy, việc xác định sự bất bình đẳng trong gánh nặng công việc gia đình cũng như giám sát sự tiến bộ trong quá trình thực hiện chỉ tiêu này của các địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội liên quan đến phương pháp tính số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công (Công văn số 2792/LĐTBXH-BĐG ngày 20 tháng 8 năm 2021) vẫn chưa cụ thể, rõ ràng. Đồng thời việc hướng dẫn thu thập, báo cáo và sử dụng số liệu dựa vào kết quả điều tra lao động, việc làm hằng năm do Tổng cục Thống kê cung cấp nên địa phương chưa chủ động cập nhật số liệu. Qua giám sát, chỉ có 1/9 địa phương cung cấp được số liệu liên quan đến chỉ tiêu này cho thấy các địa phương còn gặp nhiều lúng túng trong công tác thống kê.
3. Kết luận và khuyến nghị
Bình đẳng giới là mục tiêu lâu dài và cần cả một quá trình để từng bước thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của mỗi cá nhân, tập thể. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững về chính là sự cụ thể hoá các cam kết quốc tế về bình đẳng giới của chính phủ Việt Nam trên các lĩnh vực. Trong lĩnh vực gia đình, chỉ tiêu 5.4 là một trong những chỉ tiêu khó đạt. Vấn đề này phụ thuộc khá nhiều vào các khuôn mẫu định kiến cũng như nhận thức của xã hội. Bài viết đề xuất một số khuyến nghị sau:
3.1. Đối với Đảng, Chính phủ
- Cần rà soát và đánh giá tình hình thực thi chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới làm cơ sở đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện luật và các văn bản dưới pháp luật về bình đẳng giới để đảm bảo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và nam giới khi tham gia công việc gia đình.
- Ký kết Nghị quyết liên tịch về công tác phối hợp giữa Chính phủ với Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 2025 - 2030.
- Bảo đảm nguồn lực đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, cụ thể, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc tổ chức thực hiện bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình.
3.2. Đối với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội
- Tiếp tục triển khai hiệu quả nhiệm vụ được giao tại Chỉ tiêu 5.4 “Bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ và chăm sóc gia đình; công nhận việc nội trợ và các chăm sóc không được trả phí; tăng cường các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính sách bảo trợ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em”.
- Nghiên cứu, tham mưu đề xuất các giải pháp phù hợp để đảm bảo đạt tỷ lệ thời gian làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được trả công theo lộ trình đã đề ra.
- Có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hơn về việc tính toán số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công.
- Xây dựng hướng dẫn cụ thể về cách thức triển khai mô hình “Bàn tay yêu thương của cha” để nhân rộng trên các tỉnh/thành, địa phương.
- Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa các bộ, ngành liên quan và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội LHPN Việt Nam để thực hiện tốt các mục tiêu phát triển bền vững.
3.3. Đối với UBND các tỉnh/thành phố
- Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc qia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện bình đẳng giới trong chiến lược, kế hoạch, chương trình tại địa phương để có những điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
- Xây dựng và phát triển các dịch vụ công cộng, dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em và đảm bảo các điều kiện để phụ nữ tiếp cận được các dịch vụ.
- Đảm bảo việc thanh, kiểm tra thường xuyên, liên tục các cơ sở trông giữ trẻ ngoài công lập, đảm bảo điều kiện hoạt động về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chương trình..., tăng cường nòng cốt là Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn và cơ quan quản lý giáo dục các quận, huyện, thành phố, thị xã. Đặc biệt cần mạnh tay xử lý các cơ sở hoạt động không phép để đảm bảo tâm lý phụ huynh yên tâm khi gửi trẻ.
3.4. Đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp
- Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức và trách nhiệm của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc triển khai thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ nhất là các đối tượng lãnh đạo quản lý, nam giới;
- Nhân rộng các mô hình, câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, bình đẳng và không có bạo lực, thu hút sự tham gia tích cực của nam giới vào hoạt động này tại địa phương.
- Tăng cường giám sát việc thực hiện Luật trẻ em, giám sát việc thực hiện trông giữ trẻ tại các cở công lập và ngoài công lập, giám sát tình hình thực hiện Mục tiêu 5.4 thông qua các đề án, mô hình thí điểm.
- Thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về công việc chăm sóc không được trả phí chuẩn bị đầu vào cho quá trình phản biện xã hội các văn bản quy phạm pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, chương trình về an sinh xã hội ở cấp Trung ương và địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Kế hoạch và đầu tư. (2022). Báo cáo số 3303/BKHĐT-KHGDTNMT ngày 20/5/2022 báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững năm 2021.
Bộ Kế hoạch và đầu tư. (2023). Báo cáo số 8222/BKHĐT-KHGDTNMT ngày 04/10/2023 báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững năm 2022 và Rà soát quốc gia tự nguyện thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững năm 2023.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Actionaid, Quỹ hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam. Công việc chăm sóc không lương tái phân bổ để phát triển bền vững
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Australian, UN Women. (2021). Báo cáo rà soát tình hình thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. (2021). Công văn số 2792/LĐTBXH-BĐG ngày 20/8/2021 Hướng dẫn thu thập số liệu báo cáo kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. (2023). Báo cáo số 3287/LĐTBXH ngày 16/8/2023 báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu 5.4 thuộc Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Chính phủ. (2023). Báo cáo số 95/BC-CP ngày 31/3/2023 kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2022.
Chính phủ. (2024). Báo cáo số 75/BC-CP ngày 01/3/2024 Kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.
Hội LHPN Việt Nam. (2019). Báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em giai đoạn 01/01/2015 – 30/6/2019.
Hội LHPN Việt Nam. (2023). Báo cáo số 275/BCGS-ĐCT ngày 14/12/2023 Kết quả giám sát thực hiện mục tiêu 5.4 thuộc Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững tại Bộ Lao động – Thương binh và xã hội.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2020). Báo cáo Quốc gia năm 2020 Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
Thủ tướng Chính phủ. (2017). Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Thủ tướng Chính phủ. (2019). Quyết định số 681/QĐ-TTg ngày 04/6/2019 về việc ban hành lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
Thủ tướng Chính phủ. (2023). Quyết định số 841/QĐ-TTg ngày 14/7/2023 Quyết định Ban hành Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
UBND thành phố Cần Thơ. (2023). Báo cáo số 223/BC-UBND ngày 27/7/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiệu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND thành phố Hải Phòng. (2023). Báo cáo số 212/BC-UBND ngày 03/7/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiêu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Bình Phước. (2023). Báo cáo số 258/BC-UBND ngày 04/8/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiệu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Cà Mau. (2023). Báo cáo số 250/BC-UBND ngày 29/6/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiêu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Hà Nam. (2023). Báo cáo số 263/BC-UBND ngày 12/7/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiệu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Lai Châu. (2023). Báo cáo số 258/BC-UBND ngày 05/7/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiêu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Lâm Đồng. (2023). Báo cáo số 196/BC-UBND ngày 19/6/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiệu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. (2023). Báo cáo số 295/BC-UBND ngày 07/7/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiêu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UBND tỉnh Tuyên Quang. (2023). Báo cáo số 134/BC-UBND ngày 29/6/2023 Kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới tại mục tiêu 5.4 - Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
UN Women. (2016). Tài liệu thảo luận chính sách Công việc chăm sóc không lương: Những vấn đề đặt ra và gợi ý chính sách cho Việt Nam.
Unicef Việt Nam. (2022). Thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam: Đánh giá tiến độ và ước tính các nỗ lực cần thiết - Tốc độ giảm bình quân hàng năm trên các lĩnh vực xã hội.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 